Bộ Công Thương - Cục điều tiết điện lực

Thứ ba, 03/12/2024 | 11:29 GMT +7

  • facebook | 024.221.47474

Phát triển năng lượng

Thương mại than được định hình lại bởi 3 "ông lớn" châu Á, có cả Việt Nam

20/08/2024
Cơ quan Năng lượng Quốc tế cho biết, nhu cầu nhập khẩu than rất lớn của Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam đã định hình lại thương mại than toàn cầu.
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), Trung Quốc - gã khổng lồ của thương mại than toàn cầu, tiếp tục thách thức kỳ vọng thương mại.

Cơ quan Năng lượng Quốc tế cho biết, nhu cầu nhập khẩu than rất lớn của Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam đã định hình lại thương mại than toàn cầu. - Ảnh: viracresearch
Trung Quốc - Ấn Độ - Việt Nam, định hình thương mại than toàn cầu
Bất chấp kho dự trữ dồi dào, nhập khẩu than của Trung Quốc đã tăng 12% trong nửa đầu năm 2024. Trong khi sự suy thoái được dự đoán trong phần còn lại của năm và nhu cầu lớn của Trung Quốc có ý nghĩa sâu rộng đối với chuỗi cung ứng và giá than toàn cầu.
Ấn Độ cũng không chịu thua kém khi đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể trong nhập khẩu than. Nhập khẩu than bằng đường biển tăng 21% trong bốn tháng đầu năm 2024 đã nhấn mạnh quyết tâm của quốc gia này trong việc đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Việc gia hạn nhiệm vụ pha trộn than cho đến ít nhất là tháng 10/2024 tiếp tục củng cố vị thế của Ấn Độ với tư cách là nhà nhập khẩu lớn.
"Mặc dù Ấn Độ tìm cách giảm số lượng nhập khẩu, các tuyến đường mới đang được thiết lập như tuyến đường sắt từ Nga đến Ấn Độ qua Iran và thử nghiệm giao than từ Mông Cổ", báo cáo cho biết.

Tình hình nhập khẩu than của các nước châu Á - Ảnh: IEA
Tuy nhiên, sự nổi lên của Việt Nam như một quốc gia có nhu cầu lớn về than là một sự phát triển đáng ngạc nhiên.
"Nhập khẩu than của nước này đã tăng vọt 43% trong bốn tháng đầu năm 2024, chủ yếu do sự hợp lưu của các yếu tố bao gồm khả năng cung cấp thủy điện thấp và tăng trưởng nhu cầu điện mạnh mẽ. Tuy nhiên, mức tăng này dự kiến sẽ đi ngang trong phần còn lại của năm", IEA cho biết.
Hướng tới năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu xây dựng năm nhà máy nhiệt điện than mới có thể làm tăng thêm nhu cầu than.
Cơ hội của các nhà cung ứng
Để thỏa mãn nhu cầu “khủng” của những gã khổng lồ châu Á, Indonesia đã sẵn sàng trở thành nhà xuất khẩu than nhiệt thống trị thế giới, chiếm gần một nửa xuất khẩu toàn cầu vào năm 2024.
Sự gia tăng xuất khẩu của Indonesia nhấn mạnh vai trò nòng cốt của nước này trong việc đáp ứng nhu cầu năng lượng của khu vực. Ngược lại, xuất khẩu than của Nga đang phải vật lộn với hậu quả của các lệnh trừng phạt và thách thức hậu cần, dẫn đến sự thu hẹp đáng kể.
Úc, trong khi duy trì vị trí là nhà xuất khẩu than lớn, được dự đoán sẽ chứng kiến tăng trưởng xuất khẩu "khiêm tốn" khi nhu cầu từ các thị trường trọng điểm ổn định. Tuy nhiên, Mông Cổ đang nổi lên như một ngôi sao đang lên trên thị trường than đá, trên đà vượt qua các cường quốc truyền thống như Colombia và Nam Phi.
Ở những nơi khác, vai trò của châu Âu trong thương mại than toàn cầu đang trải qua một sự suy giảm đáng kể. "Trái ngược với nhập khẩu ngày càng tăng ở châu Á, nhập khẩu than hàng tháng vào Liên minh châu Âu và Vương quốc Anh đã giảm xuống mức thấp nhất trong thế kỷ XXI”, báo cáo cho biết.
Việc Thố Nhĩ Kỳ vươn lên vị trí nhà nhập khẩu than lớn nhất bên ngoài châu Á nhấn mạnh sự tham gia ngày càng giảm của châu Âu vào thương mại than toàn cầu.
Trong khi đó, nhu cầu than toàn cầu dự kiến sẽ tương đối ổn định vào năm 2025. Mặc dù đạt mức cao kỷ lục vào năm 2023, sự phụ thuộc của thế giới vào than đá đang có dấu hiệu chững lại khi các nguồn năng lượng tái tạo tiếp tục mở rộng.
“Nhu cầu than toàn cầu có thể sẽ không đổi cho đến năm 2025, dựa trên các thiết lập chính sách và xu hướng thị trường hiện nay. Việc tiếp tục triển khai nhanh chóng năng lượng mặt trời và gió, kết hợp với sự phục hồi của thủy điện ở Trung Quốc, đang gây áp lực đáng kể lên việc sử dụng than. Nhưng ngành điện là động lực chính của nhu cầu than toàn cầu và tiêu thụ điện đang tăng rất mạnh ở một số nền kinh tế lớn. Nếu không có sự tăng trưởng nhanh chóng như vậy về nhu cầu điện, chúng ta sẽ thấy sự sụt giảm trong việc sử dụng than toàn cầu trong năm nay. Và xu hướng cơ cấu tại nơi làm việc có nghĩa là nhu cầu than toàn cầu sẽ đạt đến một bước ngoặt và bắt đầu giảm sớm”, Keisuke Sadamori giám đốc thị trường năng lượng và an ninh của IEA cho biết.
Dự báo tương lai thương mại than toàn cầu
Việc áp dụng ngày càng tăng các nguồn năng lượng tái tạo đặc biệt rõ ràng ở Trung Quốc. Trong khi đất nước đã chứng kiến sự gia tăng tiêu thụ điện, sự phục hồi trong sản xuất thủy điện kết hợp với đầu tư đáng kể vào năng lượng gió và mặt trời đang kìm hãm tăng trưởng nhu cầu than.
IEA lưu ý: Sự phục hồi của thủy điện ở Trung Quốc kết hợp với sự mở rộng đáng kể của gió và mặt trời dự kiến sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng sản xuất điện than trên toàn cầu vào năm 2024.
Tuy nhiên, bức tranh không đồng nhất trên tất cả các khu vực. Ví dụ, Ấn Độ và Việt Nam đã trải qua nhu cầu than tăng do tiêu thụ điện mạnh và sản lượng thủy điện thấp. Nền kinh tế đang mở rộng nhanh chóng của Ấn Độ cũng đang thúc đẩy tiêu thụ than công nghiệp. Tuy nhiên, ngay cả ở các quốc gia này, tăng trưởng dự kiến sẽ ở mức vừa phải.
Ngược lại, các nền kinh tế tiên tiến đang trên quỹ đạo đi xuống. Ví dụ, Liên minh châu Âu dự kiến sẽ chứng kiến nhu cầu than giảm 19% vào năm 2024, do sự mở rộng của năng lượng tái tạo và nhu cầu tổng thể yếu.
Nhưng trong khi bức tranh toàn cầu tổng thể cho thấy nhu cầu than đang chững lại, IEA cảnh báo dự báo này có thể không chắc chắn.
“Thời tiết, hoạt động kinh tế, giá khí đốt tự nhiên và các yếu tố khác vẫn có thể dẫn đến biến động nhẹ. Điều này đặc biệt đúng đối với ngành điện của Trung Quốc, lĩnh vực chiếm một phần ba nhu cầu than toàn cầu”, báo cáo cho biết.
Vì sao Việt Nam vừa xuất khẩu vừa nhập về hàng chục triệu tấn than?
Theo Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), lý do, than dành cho xuất khẩu là than chất lượng cao, giá trị cao. Than xuất khẩu chủ yếu là than cục, than cám (cám 1, 2 và 3), loại than chất lượng cao được sản xuất đồng thời với chủng loại than khác theo dây chuyền công nghệ. Đây là loại than trong nước không có nhu cầu sử dụng, hoặc sử dụng không hết và còn dư. Khả năng sản xuất của TKV với loại than này bình quân khoảng 2- 2,1 triệu tấn một năm.
Tập đoàn này cho rằng, nhu cầu trong nước không tiêu dùng hết than chất lượng cao, nên việc tiếp tục cho phép xuất khẩu sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp, giúp TKV ổn định sản xuất kinh doanh và tăng nộp ngân sách. Bởi, một tấn than cục, than cám chất lượng cao xuất khẩu có giá trị tương đương 2-2,5 tấn than tham cho sản xuất điện. Việc này sẽ giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, sử dụng hiệu quả tài nguyên, tăng nộp ngân sách.
Việc tiếp tục cho phép xuất khẩu than chất lượng cao nhận được đồng tình từ Uỷ ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp - cơ quan chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại TKV.
Theo Báo Công Thương

Cùng chuyên mục

  • 0
  • 0

giá điện sinh hoạt

Mức sử dụng trong tháng Giá (đồng/kWh)
Bậc 1: Cho kWh từ 0 - 50 1.893
Bậc 2: Cho kWh từ 51 - 100 1.956
Bậc 3: Cho kWh từ 101 - 200 2.271
Bậc 4: Cho kWh từ 201 - 300 2.860
Bậc 5 Cho kWh từ 301 - 400 3.197
Bậc 6: Cho kWh từ 401 trở lên 3.302