Ảnh minh họaTổ chức phi lợi nhuận Global Energy Monitor-GEM (San Francisco, tiểu bang California, Hoa Kỳ) chuyên phát triển và phân tích dữ liệu về cơ sở hạ tầng năng lượng, tài nguyên và phương cách sử dụng, đồng thời cung cấp quyền truy cập mở vào thông tin cần thiết để xây dựng một tương lai năng lượng bền vững trên toàn cầu cũng như nghiên cứu bối cảnh năng lượng quốc tế đang phát triển, tạo ra cơ sở dữ liệu, báo cáo và các công cụ tương tác nhằm nâng cao hiểu biết với mục tiêu biến sự phức tạp thành sự rõ ràng minh bạch.
Trong phạm vi bài viết này, xin trân trọng giới thiệu những nội dung chính của báo cáo với tựa đề “Cuộc đua vươn tới vị trí dẫn đầu Đông Nam Á về năng lượng mặt trời và gió năm 2024” của nhóm tác giả thuộc Global Energy Monitor thực hiện với sự hỗ trợ của Quadrature Climate Foundation số ra tháng 1/2024, trong đó có nội dụng dung đề cập đến năng lượng mặt trời và gió của Việt Nam để độc giả nghiên cứu, tham khảo.
Công suất năng lượng mặt trời và gió hiện đang được vận hành ở khu vực Đông Nam Á tăng 1/5 kể từ năm 2023 song lại chỉ có 3% dự án tiềm năng đang được triển khai xây dựng. Hiện các nước thành viên ASEAN cùng có một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong thế giới với nhu cầu năng lượng ngày càng gia tăng để phù hợp với tốc độ tăng trưởng. Với nhu cầu năng lượng trung bình toàn cầu tăng 16% trong giai đoạn 2015-2021, nhu cầu năng lượng trung bình của ASEAN cũng tăng 22% trong cùng một khoảng thời gian đó. Theo Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA), nhu cầu năng lượng ở các nước thành viên ASEAN dự kiến sẽ tăng 3% mỗi năm cho đến năm 2030.
Bất chấp nguồn lực kinh tế có mặt còn bị hạn chế, các nước thành viên ASEAN hiện đang phải đối mặt với thách thức kép (dual challenge) tức là vừa đảm bảo an ninh năng lượng và vừa cắt giảm phát thải khí CO₂ khi mà đang tìm phương cách hoàn thành các mục tiêu chuyển đổi năng lượng trong bối cảnh tăng trưởng nhanh chóng do những tác động của biến đổi khí hậu trên toàn cầu. Trong số những quốc gia dễ bị tổn thương nhất thì những quốc gia thuộc ASEAN đã phải trải qua nhiều đợt lũ lụt, hạn hán và mực nước biển dâng cao cũng như các đợt nắng nóng gay gắt, tất cả đều dẫn đến tình trạng cung cấp điện căng thẳng trong bối cảnh nhu cầu năng lượng ngày càng gia tăng.
Các nước thành viên ASEAN đã đặt mục tiêu chung về công suất năng lượng tái tạo sẽ tăng lên mức là 35% vào năm 2025. Khi đó đã bao gồm tất cả các loại năng lượng tái tạo thì khu vực này đã chốt việc đáp ứng gần bằng mức mục tiêu của mình đã đề ra với việc đạt được mức hiện có là 32% tổng công suất có nguồn gốc từ năng lượng tái tạo. Ngoài ra, khu vực này hiện có 28 gigawatt (GW) quy mô tiện ích lớn điện mặt trời và điện gió đang vận hành, chiếm tới 9% tổng công suất điện của cả khối này. Bên cạnh đó, ASEAN còn sẽ phải xây dựng thêm 17 GW công suất điện gió và mặt trời ở quy mô tiện ích đến năm 2025 thì mới đạt được mục tiêu nêu trên đã đề ra. Do vậy, chỉ cần tăng công suất năng lượng tái tạo lên 3% nữa để đạt được mục tiêu này, các nước thành viên ASEAN còn dự kiến không những chỉ đạt được mục tiêu 35% công suất năng lượng tài tạo mà còn thậm chí sẽ vượt qua cả mốc mục tiêu này nữa trong tương lai.
Tuy nhiên, cùng lúc đó thì vẫn tiếp tục diễn ra sự hỗ trợ khí đốt và than đá, các rào cản pháp lý và các chính sách không hỗ trợ xây dựng năng lượng tái tạo mới đang cản trở quá trình phát triển và chuyển đổi năng lượng một cách nhanh chóng cần thiết nhằm phá vỡ sự phụ thuộc của ASEAN vào khí đốt và than đá cũng như những bước tiến bộ về năng lượng tái tạo ở các nước thành viên ASEAN. Mặc dù khu vực này có tiềm năng tăng công suất năng lượng tái tạo lên gấp bảy lần song báo cáo này nhận thấy có tới 220 GW công suất tiềm năng đã được ghi nhận về năng lượng mặt trời và gió ở quy mô tiện ích song trên thực tế chỉ có 3% tổng công suất tiềm năng về năng lượng mặt trời và gió của các nước ASEAN hiện đang được xây dựng phát triển. Trong khi đó, tỷ lệ trung bình toàn cầu, ngoại trừ Trung Quốc, thì lại có mức cao hơn gấp đôi so với các nước thành viên ASEAN-chỉ ở mức 7% công suất tiềm năng đang được xây dựng.
Những phát hiện chính
- Các nước ASEAN hiện có hơn 28 GW công suất năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích lớn đang được vận hành và gia tăng thêm 20% công suất tiềm năng hoạt động kể từ tháng 1/2023 và chiếm mức 9% tổng công suất điện hiện có của các nước ASEAN.
- Hiện Việt Nam có thị phần lớn nhất về công suất năng lượng mặt trời và gió đang vận hành ở quy mô tiện ích trong khu vực ASEAN (19 GW). Tiếp theo sau là Thái Lan và Philippines, mỗi nước có 3 GW công suất vận hành năng lượng mặt trời và gió ở quy mô tiện ích.
- Philippines và Việt Nam là những nước dẫn đầu mới nổi trên toàn cầu về năng lượng mặt trời và gió trên quy mô tiện ích với 99 GW và 86 GW công suất tiềm năng tương ứng, và đều là những quốc gia có công suất tiềm năng lớn thứ 8 và thứ 9 về năng lượng mặt trời và gió trên toàn thế giới.
- Các nước thành viên ASEAN có tiềm năng năng lượng gió ngoài khơi cao gần gấp 5 lần so với năng lượng gió tiềm năng trên bờ trong nội khối này, trong khi đó, công suất năng lượng gió tiềm năng ngoài khơi trong khu vực (124 GW) lại cao gần gấp đôi so với công suất năng lượng gió ngoài khơi toàn cầu hiện nay (69 GW).
- Để các nước thành viên ASEAN đạt được mục tiêu lắp đặt 35% công suất năng lượng tái tạo vào năm 2025, việc bổ sung thêm 17 GW công suất năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích thì cần được triển khai vận hành giữa các nước thành viên ASEAN trong hai năm tới đây song chỉ có 3% (6 GW) công suất trong tổng số 220 GW công suất năng lượng mặt trời và gió hiện đang được xây dựng phát triển.
I/ Các nước thành viên ASEAN gia tăng vận hành 20% quy mô tiện ích năng lượng mặt trời và gió kể từ tháng 1/2023
Công cụ theo dõi về lĩnh vực năng lượng mặt trời toàn cầu của Global Energy Monitor và Global Wind Power Tracker hiện có trong danh mục hồ sơ hơn 28 GW công suất vận hành năng lượng mặt trời và gió tại tất cả các nước ASEAN, theo đó, công suất vận hành đã tăng 20% so với cùng kỳ năm trước kể từ tháng 1/2023 đến nay. Trong khi vận hành năng lượng mặt trời ở quy mô tiện ích đóng góp phần lớn vào mức tăng tổng thể công suất năng lượng tái tạo (tăng 3 GW tương ứng với tăng trưởng 17%), thì năng lượng gió ở quy mô tiện ích được vận hành lớn nhất với mức tăng tương đối (tăng 2 GW tương ứng với tăng trưởng 29%) cũng kể từ tháng 1/2023. Trong khi đó, phát triển điện gió ngoài khơi chiếm 2 GW trong tổng số 9 GW công suất điện gió quy mô tiện ích đang vận hành, điều này đáng chú ý vì những thách thức kỹ thuật và liên quan đến chi phí điện gió ngoài khơi cao hơn so với điện gió trên đất liền.
Đối với vận hành năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích ở khu vực Đông Nam Á, công suất điện gió và mặt trời quy mô tiện ích đang vận hành ở cấp quốc gia, tính bằng megawatt (MW) thì Việt Nam chiếm vị trí số 1 trong tổng số 11 nước thành viên ASEAN về vận hành năng lượng mặt trời (13.035MW), vận hành năng lượng gió (6.466MW) và vận hành cả năng lượng mặt trời và gió (19.501MW); riêng ba nước Brunei, CHDCND Lào và Đông Timor lần lượt chiếm vị trí 9, 10 và 11 vì không có cả ba loại vận hành công suất điện mặt trời và gió quy mô tiện ích.
Việt Nam có công suất vận hành điện mặt trời và gió quy mô tiện ích lớn nhất, tiếp theo là Thái Lan và Philippines
Việt Nam hiện đứng đầu khu vực Đông Nam Á về mặt vận hành công suất năng lượng mặt trời và gió ở quy mô tiện ích, với công suất lớn hơn gấp đôi so với các nước thành viên ASEAN khác cộng lại (hơn 19 GW so với 9 GW). Công suất năng lượng mặt trời và gió ở quy mô tiện ích vận hành cũng tạo nên mức gia tăng 25% tổng cơ cấu năng lượng của Việt Nam so với mức trung bình của các nước ASEAN khác chỉ là 9%. Bắt đầu từ năm 2017, Việt Nam đã tiến hành triển khai hàng loạt chính sách cạnh tranh và chính sách khuyến khích đầu tư vốn tài chính nhằm đem lại quy mô tiện ích cho các dự án năng lượng mặt trời đi vào hoạt động, điều này đã kéo theo sự bùng nổ về phát triển năng lượng mặt trời tại quốc gia này. Hai chương trình giá bán điện (feed-in-tariff -FIT) đã được công ty tiện ích điện lực thuộc doanh nghiệp nhà nước triển khai từ năm 2017 đến năm 2020. Khi hai chương trình FIT hết hạn thì Việt Nam không thực hiện việc quản lý chính sách giá cả thay thế. Kết hợp với nguồn cung do đại dịch COVID-19 đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng, nhiều dự án năng lượng mặt trời không hoạt động trước ngày hết hạn FIT và rời bỏ thị trường do thiếu hướng dẫn dài hạn để tiếp tục phát triển dự án và tích hợp hệ thống mạng lưới điện. Mặc dù đã bổ sung thêm 12 GW công suất năng lượng mặt trời quy mô tiện ích giai đoạn 2019–2021 song những lỗ hổng trong chính sách năng lượng tái tạo của Việt Nam đã phần nào hạn chế việc vận hành năng lượng mặt trời và gió ở quy mô tiện ích khi mà chứng kiến việc vận hành chỉ 1 GW công suất (2022) so với mức gần 4 GW công suất được ghi nhận vào năm 2021.
Hiện Thái Lan và Philippines mỗi nước có hơn 3 GW công suất năng lượng mặt trời và gió đang vận hành ở quy mô tiện ích. Thái Lan là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai ASEAN và được coi là một quốc gia có độ rủi ro thấp với rất ít rào cản khi đầu tư vào năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích dự án. Quan điểm này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển vận hành 3 GW công suất năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích đang hoạt động của Thái Lan, với tỷ lệ gần 67% trong số công suất đó là từ phát triển các dự án năng lượng gió trên đất liền. Philippines cũng đã tổ chức một chương trình hợp lý hệ thống đấu thầu dự án, chủ yếu được tư nhân hóa việc phát điện, điều này cho phép không làm cản trở bộ công cụ trong quản lý (pipeline) để phát triển dự án. Hiện Ba phần tư công suất năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích đang được vận hành của Philippines là đến từ năng lượng mặt trời.
II/ Philippines và Việt Nam đóng góp 80% triển vọng công suất năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích được vận hành song giá cả xây dựng vẫn còn thấp
Hai nước thành viên ASEAN hiện đang dẫn đầu về triển vọng công suất năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích là Philippines và Việt Nam, với hơn 185 GW công suất đã công bố, tiền xây dựng và đang trong tình trạng xây dựng. Tính chung, hai quốc gia này đã đóng góp trên 80% tiềm năng năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích của khối ASEAN. Trong đó bao gồm hơn 60% công suất tiềm năng này đến từ sự phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam và Philippines (lần lượt là 72 GW và 52 GW). Tuy nhiên, chỉ có 6,3 GW (tăng trưởng 3%) tổng công suất tiềm năng năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích ở ASEAN hiện đang được xây dựng.
Chỉ riêng Philippines chịu trách nhiệm cho gần một nửa (45%) công suất tiềm năng của các nước ASEAN. Thậm chí, con số trên cao gấp hơn năm lần công suất tiềm năng của bất kỳ nước ASEAN nào khác, ngoại trừ Việt Nam. Hiện Philippines thiết lập Chương trình đấu giá năng lượng xanh (green energy auction program-GEAP) để phát triển lĩnh vực năng lượng tái tạo. Phiên đấu giá mới nhất của Philippines thực hiện diễn ra vào tháng 3/2023 (GEA-2) vừa qua đã khuyến khích hơn 300 hồ sơ nộp dự thầu để phát triển trang trại 3 GW công suất năng lượng mặt trời và gió trên đất liền cũng như năng lượng sinh học bắt đầu từ giai đoạn 2024–2026. Bởi do dự án thuộc GEA-2 ban đầu được thiết lập để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển trên 11 GW công suất tiềm năng nên cuộc đấu giá trên rõ ràng được phần lớn nhà đầu tư phát triển đăng ký bỏ thầu dưới mức mong đợi. Tuy nhiên, về mặt tích cực, công suất mà các nhà đầu tư giành thắng thầu đã chứng tỏ tăng tới 75% so với phiên đấu giá đầu tiên tổ chức vào năm 2022, điều này cho thấy mối quan tâm ngày càng tăng đối với lĩnh vực năng lượng tái tạo của Philippines. Năng lượng gió ngoài khơi chiếm phần lớn (52%) về công suất điện tái tạo quy mô tiện ích tiềm năng của Philippines với lượng gió ngoài khơi lớn gấp hơn năm lần so với lượng gió trên đất liền. Trong tháng 4/2023, Philippines cũng đã ban hành sắc lệnh hành pháp nhằm phác thảo sự hợp tác giữa các nhà đầu tư tư nhân và chính phủ trong việc quản lý năng lượng gió ngoài khơi. Kể từ khi ban hành sắc lệnh đó cho đến nay, số lượng hợp đồng điện gió ngoài khơi được ký kết đã gia tăng nhiều hơn gấp đôi lên gần 80 hợp đồng, giúp nâng tổng công suất điện gió lên mức 61 GW.
Trong khi đó, Việt Nam lại sở hữu hơn 86 GW công suất tiềm năng, bao gồm 72 GW công suất điện gió ngoài khơi, trong đó chỉ còn có 2% công suất tiềm năng đang trong giai đoạn xây dựng phát triển. Hiện có các sự khác biệt giữa công suất tiềm năng và công suất đang xây dựng phát triển một phần là bởi do Việt Nam thiếu sự tinh gọn (concise) và các chính sách năng lượng tái tạo một cách đáng tin cậy để có thể định hướng lộ trình quan trọng trong việc thực hiện dự án. Điều này cũng đã khiến nhiều nhà đầu tư tài chính mất đi động lực để đạt được sự tiến bộ trong phát triển dự án. Hiện GEM đã lập danh mục gần 40 GW công suất năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích dự án ở Việt Nam chưa đạt được tiến triển hoặc chưa được công bố trong vòng hai năm qua tại thời điểm đó mà các dự án này được coi là bị tạm gác lại (shelved), điều này thể hiện thêm nữa sự thiếu động lực để ưu tiên năng lượng mặt trời và xây dựng điện gió và hòa kết nối hệ thống mạng lưới điện trong nước.
Một thách thức nữa mà những nỗ lực của năng lượng tái tạo của Việt Nam đang phải đối mặt với việc cho phép tham gia tuyên bố chính trị thiết lập “Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng” (just energy transition partnership-JETP), với hỗ trợ của các nước G7 và các đối tác nhằm thiết lập cơ chế thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo và giảm bớt các rào cản tài chính để phát triển mạnh mẽ nền kinh tế năng lượng tái tạo khi nước này lùi bước (backs away) trước sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Tháng 5/2023, Việt Nam đã thông qua Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII) đã từng bị trì hoãn trước đó. Quy hoạch điện VIII còn được biết đến dưới cái tên “Kế hoạch phát triển điện lực 8” (power development plan 8-PDP8). Cùng với việc vạch ra cơ cấu năng lượng của Việt Nam trong tương lai thì báo cáo này còn phác thảo lộ trình chiến lược phát triển năng lượng của Việt Nam nhằm cải thiện hệ thống mạng lưới truyền tải điện cho hộ gia đình. Ví dụ, PDP8 nêu rõ mục tiêu của Việt Nam sẽ đạt được hơn 27 GW công suất điện gió đang được vận hành vào năm 2030, tăng gấp bốn lần so với công suất vận hành hiện tại chỉ là 6,5 GW (Người dịch: Theo Quy hoạch điện VIII, công suất điện gió ngoài khơi của Việt Nam đến năm 2030 đạt 6.000 MW, định hướng đến năm 2050 đạt từ 70.000 MW đến 91.000 MW). Tác động thực sự của cơ chế JETP và PDP8 đối với Việt Nam về phát triển năng lượng mặt trời và gió vẫn chưa được xác định sự liên kết giữa các chính sách và chương trình tài trợ này vẫn còn đang trong quá trình phát triển.
Tại quốc đảo Indonesia hiện có 19 GW công suất năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích tiềm năng, trong đó bao gồm 16,5 GW công suất là năng lượng mặt trời và 13 GW (chiếm 70%) trong tổng số 19 GW công suất tiềm năng này còn đang trong giai đoạn công bố. Hiện chưa có dự án nào đang xây dựng phát triển tại quốc gia này.
Trong số các nước thành viên ASEAN, CHDCND Lào nổi bật về năng lượng mặt trời và gió có quy mô tiện ích tiềm năng đáng kể so với quy mô của nền kinh tế đất nước. Đáng chú ý, công suất năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích tiềm năng của CHDCND Lào là đối thủ của Vương quốc Thái Lan (cả hai nước đều vượt quá 3 GW công suất), mặc dù nền kinh tế Lào chỉ bằng 2%. Hơn nữa, với nền kinh tế chỉ bằng 3% của Malaysia song triển vọng phát triển năng lượng mặt trời và gió ở quy mô tiện ích ở CHDCND Lào đã vượt qua Malaysia hơn 150%, điều này nêu bật tham vọng của quốc gia này muốn vượt lên trên sức nặng kinh tế của mình. Sự phát triển năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích của CHDCND Lào đang được thúc đẩy bởi sự hợp tác tài chính với các đối tác khối ASEAN. Điều này thật là ấn tượng khi CHDCND Lào đang xây dựng trang trại gió trên bờ Monsoon lớn nhất ASEAN nằm trong khu vực kết nối giữa huyện Đakjueng của tỉnh Sekong và huyện Sanxai của tỉnh Attapeu, với công suất thiết kế dự kiến là 600 MW.
Theo Petrotimes