Điện được dùng trong hầu hết các hoạt động và tiêu dùng của nền kinh tế, vì vậy tăng giá điện sẽ làm tăng chi phí sản xuất, làm giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong nước và giảm chi tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình. Tăng giá điện cũng sẽ gây áp lực khá lớn lên lạm phát và làm giảm tăng trưởng kinh tế.
Từ trước đến nay, giá bán điện lâu nay chưa được điều tiết theo cơ chế thị trường, thường là giá cố định do Chính phủ quyết định, được thực hiện trong một hoặc vài năm. Nếu như có sự điều chỉnh thì gần như không có nhiều sự điều chỉnh lớn.
Tìm kiếm giải pháp để giải bài toán giá điện theo nguyên tắc thị trường đang nhận được sự quan tâm của các Bộ ngành, đơn vị hữu quan (ảnh minh họa: Internet). Tuy nhiên, trong xu hướng Việt Nam cam kết giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và chú trọng phát triển năng lượng tái tạo thì cần thiết phải tính toán lại cách tính giá điện để vừa đảm bảo an ninh năng lượng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng không làm ảnh hưởng lớn đến đời sống của Nhân dân là một bài toán khó.
Để tăng tính minh bạch, góp phần giải bài toán giá điện theo nguyên tắc thị trường trong thời gian tới, TS.Nguyễn Minh Phong - nguyên Trưởng Phòng nghiên cứu kinh tế, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội nêu quan điểm, cần coi trọng 03 nhóm giải pháp:
Sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho quá trình sản xuất, truyền tải, tiêu thụ điện theo cơ chế giá cạnh tranh thị trường đầy đủ và lành mạnh
Theo TS.Nguyễn Minh Phong, cần xuất phát từ lợi ích quốc gia tổng thể và dài hạn, tuân thủ các quy luật, nguyên tắc, quy trình thị trường, các cam kết hội nhập quốc tế và thông lệ thế giới để giải quyết các vấn đề đặt ra trong ngành điện. Trên cơ sở cụ thể hoá các quy hoạch phát triển ngành điện và năng lượng chung của Việt Nam được xây dựng có chất lượng, cần thiết kế các chính sách tạo thuận lợi cao nhất cho đầu tư phát triển ngành điện từ các nguồn vốn Nhà nước, ngoài nhà nước, vốn đầu tư nước ngoài và các hình thức đầu tư công-tư kết hợp khác. Bên cạnh đó là loại bỏ tình trạng độc quyền, khiến các nhà đầu tư tư nhân bị chèn ép và không an tâm đầu tư lâu dài, ổn định trong ngành điện; đẩy nhanh quá trình tự do hóa đầu tư sản xuất và cung ứng điện thông qua các hợp động cung ứng điện trực tiếp, công bằng, minh bạch có độ ổn định và hiệu lực pháp lý cao nhất.
Đặc biệt, cần quán triệt nghiêm túc tinh thần Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Theo đó: Nhanh chóng xây dựng thị trường năng lượng/điện đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đa dạng hoá hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh; áp dụng giá thị trường, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng/điện; kiên quyết loại bỏ mọi biểu hiện bao cấp, độc quyền, cạnh tranh không bình đẳng, thiếu minh bạch trong ngành năng lượng.
TS.Nguyễn Minh Phong - nguyên Trưởng Phòng nghiên cứu kinh tế, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội.Tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành giá điện theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, bảo đảm kết hợp hài hòa giữa các mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hội của Nhà nước và mục tiêu sản xuất kinh doanh, tự chủ tài chính của các doanh nghiệp ngành điện. Giá điện bảo đảm thu hồi đủ chi phí, có mức lợi nhuận hợp lý, thu hút đầu tư phát triển điện, khuyến khích cạnh tranh trong các khâu sản xuất, truyền tải, phân phối, bán lẻ, sử dụng điện, chống lãng phí điện. Tiếp tục cải tiến và hoàn thiện biểu giá điện hiện hành. Nghiên cứu thực hiện giá điện hai thành phần vào thời điểm thích hợp.
Tiếp tục thực hiện minh bạch giá điện. Xoá bỏ mọi rào cản để bảo đảm giá năng lượng minh bạch do thị trường quyết định; không thực hiện bù chéo giá điện giữa các nhóm khách hàng, giữa các vùng, miền; Nhà nước điều tiết hợp lý thông qua các công cụ thị trường (thuế, phí, các quỹ…) và chính sách an sinh xã hội phù hợp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, các công cụ có tính thị trường để đẩy mạnh sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Nghiên cứu xây dựng cơ chế đấu giá, đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư kèm giá điện trong quá trình sửa đổi Luật Điện lực và hoàn thiện mô hình thị trường điện cạnh tranh. Nghiên cứu, cụ thể hóa chính sách xã hội hóa đầu tư lưới điện truyền tải. Ban hành thí điểm, tiến tới xây dựng chính thức cơ chế hợp đồng mua bán điện trực tiếp giữa nhà sản xuất điện năng lượng tái tạo và khách hàng tiêu thụ đồng bộ với sửa đổi Luật Điện lực và lộ trình thực hiện thị trường điện cạnh tranh. Nghiên cứu xây dựng quy định thu phí đối với các hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA). Có cơ chế cho phép phát triển các nhà máy điện sản xuất tại chỗ, tự cung cấp trong các khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất...; hoàn thiện cơ chế hợp đồng mua bán điện trực tiếp giữa nhà sản xuất và khách hàng tiêu thụ, cơ chế đấu thầu, đấu giá cung cấp năng lượng phù hợp, đặc biệt trong các dự án đầu tư năng lượng tái tạo, năng lượng mới; minh bạch giá mua bán điện.
Hoàn thiện khung pháp lý, khuyến khích và đẩy mạnh triển khai mô hình các công ty dịch vụ năng lượng. Rà soát, điều chỉnh các quy định về kiểm soát và điều phối thị trường điện lực. Sửa đổi, hoàn thiện các luật chuyên ngành về dầu khí, điện lực, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và các luật khác liên quan đến ngành năng lượng để làm cơ sở thực hiện hiệu quả hơn cơ chế thị trường. Nghiên cứu, thực hiện luật hoá việc điều hành giá điện và một số ưu đãi cho dự án được khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực năng lượng. Bộ Công Thương cần sớm hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành cơ chế thí điểm mua, bán điện trực tiếp (DPPA) giữa đơn vị phát điện từ năng lượng tái tạo và khách hàng sử dụng điện lớn trong khuôn khổ Quy hoạch điện VIII và để đẩy nhanh các dự án chuyển đổi năng lượng công bằng thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP 26.
Đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư và nguồn cung cấp điện bền vững
Nhằm góp phần giải bài toán giá điện theo nguyên tắc thị trường, TS.Nguyễn Minh Phong cho rằng, cần nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch phát triển năng lượng, đặc biệt trong phân ngành điện, bảo đảm tính ổn định, đồng bộ và linh hoạt, gắn kết với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và một số ngành khác; phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, liên thông giữa các phân ngành điện, than, dầu khí và năng lượng tái tạo, kết nối với thị trường khu vực và thế giới; phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hoá các loại hình năng lượng, các nguồn phát điện với cơ cấu và phân bố hợp lý, bảo đảm an toàn, tin cậy, ổn định theo hướng đa dạng hoá, chú trọng nâng cao hệ số công suất khả dụng và có dự phòng công suất phù hợp; đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường sinh thái; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch; phân bổ tối ưu hệ thống năng lượng/điện quốc gia trong tất cả các lĩnh vực trên cơ sở lợi thế so sánh của từng vùng, địa phương.
Giá bán lẻ điện tăng 3% từ ngày 04/5/2023. Theo đó, giá bán lẻ điện dùng cho sinh hoạt cũng tăng.
Mặt khác, có cơ chế khuyến khích thu hút vốn ngoài Nhà nước đầu tư xây dựng vào hệ thống truyền tải điện quốc gia. Vận hành hệ thống truyền tải điện quốc gia độc lập dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Tạo lập môi trường thuận lợi, minh bạch; công khai quy hoạch, danh mục các dự án đầu tư, xoá bỏ mọi rào cản để thu hút, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư, phát triển các dự án năng lượng trong và ngoài nước, chú trọng những dự án phát điện và các hoạt động bán buôn, bán lẻ điện theo cơ chế thị trường.
Tiếp tục khuyến khích, thu hút đầu tư nước ngoài có quy mô, chất lượng và hiệu quả cho ngành năng lượng. Khẩn trương xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách khuyến khích nâng cao tỉ lệ nội địa hoá trong ngành năng lượng; bảo đảm thực hiện tốt các yêu cầu, chỉ tiêu cụ thể về tỉ lệ nội địa hoá đối với các nhà máy điện nói riêng và dự án năng lượng nói chung. Hoàn thiện chính sách đặt hàng sản xuất của Nhà nước để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thực hiện những công trình, dự án phức tạp, kỹ thuật cao trong ngành năng lượng đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
Đổi mới chính sách tài chính theo hướng chống đầu cơ, trục lợi, lợi ích nhóm, tăng thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước; khuyến khích các dự án đầu tư năng lượng theo hình thức đối tác công tư (PPP). Thực hiện chính sách tín dụng linh hoạt, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp năng lượng tiếp cận các nguồn vốn, đặc biệt là các doanh nghiệp có dự án năng lượng xanh. Hoàn thiện chính sách thuế khuyến khích sản xuất, sử dụng năng lượng sạch, tái tạo. Xây dựng cơ sở pháp lý để có thể hình thành và vận hành hiệu quả các quỹ về phát triển năng lượng bền vững, thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả theo hướng xã hội hoá, bảo đảm độc lập về tài chính, không trùng lặp với nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước và hạn chế việc làm tăng chi phí hoạt động, sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh. Hoàn thiện cơ chế và thực hiện chính sách về tiêu chuẩn tỉ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu đầu tư và cung cấp năng lượng. Nghiên cứu, xây dựng và ban hành luật về năng lượng tái tạo. Đồng thời, ban hành quy định khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời phân tán/áp mái; hoàn thiện Chiến lược sản xuất hydrogen tại Việt Nam; đề xuất, xây dựng chương riêng về năng lượng tái tạo trong sửa đổi Luật Điện lực.
Tăng cường kiểm toán năng lượng; khuyến khích đầu tư và sử dụng các công nghệ, trang thiết bị tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, nâng cấp, xây dựng lưới điện truyền tải, phân phối điện tiên tiến, hiện đại, hệ thống lưới điện thông minh, hiệu quả, có khả năng kết nối khu vực, bảo đảm cung cấp điện an toàn, đáp ứng tiêu chí N-1 đối với vùng phụ tải quan trọng và N-2 đối với vùng phụ tải đặc biệt quan trọng.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia trong lĩnh vực năng lượng phù hợp với các quy định, tiêu chuẩn quốc tế, có xét đến các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia liên quan đến việc tái chế, sử dụng chất thải từ quá trình sản xuất năng lượng. Từng bước áp dụng các biện pháp khuyến khích và bắt buộc đổi mới công nghệ, thiết bị trong ngành năng lượng cũng như những ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng; có cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư dự án nguồn điện tại một số nước láng giềng để chủ động nhập khẩu điện về Việt Nam. Tăng cường liên kết lưới điện, hoàn thiện cơ chế mua bán điện với Trung Quốc, Lào và Campuchia. Rà soát, điều chỉnh và bổ sung những nội dung liên quan đến ngành năng lượng/điện trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam, Chiến lược biển Việt Nam và các chiến lược khác có liên quan.
Xây dựng Luật Điện lực sửa đổi để hoàn thiện chính sách về đầu tư, quy hoạch, điều hành giá điện, phát triển thị trường điện cạnh tranh, xử lý các vướng mắc, thể chế hóa cơ chế phát triển, tạo đột phá khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo; tách bạch vai trò quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đẩy nhanh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành điện; xây dựng cơ chế đầu tư thông thoáng, cải cách thủ tục hành chính để bảo đảm tiến độ các công trình điện.
Cơ cấu lại toàn diện các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực năng lượng/điện theo hướng tập trung vào các lĩnh vực cốt lõi, có thế mạnh; tách bạch chức năng kinh doanh với chức năng quản lý nhà nước; áp dụng các mô hình và thông lệ quản trị tiên tiến, nâng cao hệ số tín nhiệm quốc tế, triệt để thực hiện công khai, minh bạch hoá trong hoạt động; chú trọng nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng hạ tầng năng lượng quốc gia. Hoàn thiện các quy định về đánh giá các nguồn lực, tài sản phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn; xử lý, tái cơ cấu triệt để các dự án, doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, thua lỗ trong lĩnh vực năng lượng. Nghiên cứu, triển khai thí điểm cơ chế bán có thời hạn hoặc cho thuê dài hạn đối với các nhà máy điện, kho nhiên liệu, nhà máy lọc dầu... thuộc sở hữu của doanh nghiệp nhà nước.
Rà soát, bổ sung, điều chỉnh các cơ chế, chính sách đặc thù cho một số dự án năng lượng quan trọng, đặc biệt đối với các dự án đầu tư nguồn điện cấp bách; bảo đảm đầy đủ vốn cho các doanh nghiệp năng lượng nhà nước thực hiện các mục tiêu chiến lược và nhiệm vụ gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tăng cường sự công khai và giám sát xã hội đối với ngành điện
Cần có những quy định mới và nâng cấp những quy định cũ liên quan đến kiểm toán và công khai các chỉ tiêu kỹ thuật và chi phí hoạt động của ngành điện; cung cấp rộng rãi thông tin và khuyến khích phản biện khoa học và phản biện xã hội về cung - cầu, thuận lợi - khó khăn, các kế hoạch và dự án phát triển trong ngành điện để “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”; đồng thời tăng cường sự giám sát, kiểm tra chủ động của Nhà nước và các tổ chức xã hội, báo chí, xử lý kịp thời và nghiêm khắc các sai phạm của bất kỳ cá nhân và tổ chức nào. Đặc biệt, cần mạnh dạn tổ chức thi tuyển công khai những phương án và cá nhân ứng cử vào các vị trí nhân sự cao cấp trong quản lý và phát triển ngành điện, tạo cơ hội cho tìm kiếm và khai thác nhân tài, nâng cao trách nhiệm, năng lực cá nhân và cộng đồng, loại bỏ những cản trở chủ quan…
TS.Nguyễn Minh Phong nhấn mạnh, thực tế đã, đang và sẽ còn khẳng định, không sợ thiếu vốn, thiếu hàng hóa và sản phẩm dịch vụ cho nhu cầu ngày càng tăng cao của thị trường, dù đó là điện năng, mà chỉ sợ thiếu cơ chế khuyến khích và quản lý đầu tư hiệu quả, cũng như thiếu cơ chế tuyển chọn đúng đội ngũ cán bộ, chuyên gia và nhà đầu tư có đủ năng lực, tâm và tầm để phát triển ngành điện và các dạng năng lượng khác vì lợi ích chung của quốc gia và cộng đồng …
Cuối cùng, theo Quy hoạch điện VIII, Việt Nam sẽ có thị trường điện cạnh tranh đầy đủ và đến năm 2050, điện tái tạo sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất trên 80% trong nguồn điện ở Việt Nam, trong khi suất đầu tư cho nguồn điện này ngày càng giảm như là xu hướng chung của thế giới. Điều này đồng nghĩa với giá điện bán lẻ ở Việt Nam cũng sẽ đảo chiều, ngày càng giảm, thay vì chỉ tăng một chiều liên tục như hiện nay.../.
Theo Cổng thông tin điện tử Quốc hội