Các đại biểu tham dự tọa đàm "Tiềm năng phát triển thị trường điện khí tại Việt Nam".Với mong muốn tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, nhập khẩu và kinh doanh khí, hướng tới bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, ngày 14/12, Báo Điện tử VOV (Đài Tiếng nói Việt Nam) tổ chức diễn đàn “Tiềm năng phát triển thị trường điện khí tại Việt Nam".
Phù hợp xu hướng thế giới
Nghị quyết đã đưa ra nhiệm vụ phát triển công nghiệp khí: “Ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu và tiêu thụ khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG)”, đồng thời “chú trọng phát triển nhanh nhiệt điện khí sử dụng LNG, đưa điện khí dần trở thành nguồn cung cấp điện năng quan trọng, hỗ trợ cho điều tiết hệ thống”. Như vậy, LNG đóng vai trò là “nhiên liệu cầu nối” trong quá trình chuyển dịch năng lượng sang các loại nhiên liệu xanh, sạch, thân thiện với môi trường.
Nhà máy điện khí (Ảnh minh họa). Phát biểu ý kiến tại diễn đàn, ông Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho rằng, là một trong 6 nước trên thế giới chịu ảnh hưởng lớn nhất do biến đổi khí hậu, Việt Nam đã và đang tiên phong trong việc thực hiện các cam kết “xanh”, được cộng đồng quốc tế đánh giá như là hình mẫu về một nước đang phát triển còn nhiều khó khăn nhưng đã có những đóng góp đi đầu cho “ngôi nhà chung” an toàn của nhân loại.
Phát triển điện khí LNG giúp tăng hiệu quả trong sản xuất điện, giảm sự phụ thuộc vào nhiệt điện than, giảm phát thải, bảo vệ môi trường và hướng đến mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. LNG là dạng năng lượng có phát thải thấp, đang có xu hướng sử dụng rộng rãi, đặc biệt khi Việt Nam đã tham gia vào “Cam kết quốc tế giảm phát thải gây ô nhiễm sau COP21”.
Tuy nhiên, việc chuyển dịch sang năng lượng xanh sạch, trong đó có phát triển điện khí LNG không dễ dàng, có thể thực hiện một sớm một chiều. Các dự án LNG thường đòi hỏi nguồn vốn lớn lên tới hàng tỷ USD, phát triển điện khí LNG rất cần sự trao đổi, chia sẻ, lắng nghe giữa cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp, địa phương, các chuyên gia, nhà nghiên cứu để tiếp tục cụ thể hóa các hành động về chính sách và tổ chức thực hiện nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, nhập khẩu và kinh doanh khí, cân bằng thị trường, phát triển hạ tầng, hướng tới bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
TS Nguyễn Minh Phong, chuyên gia kinh tế. TS Nguyễn Minh Phong, chuyên gia kinh tế nhận định, phát triển nhiệt điện khí LNG trong tương lai chắc chắn sẽ giúp ngành điện phát triển xanh hơn và hạn chế sự phụ thuộc vào các nhà máy nhiệt điện than vốn chiếm tỷ lệ khá cao trong hệ thống hiện nay. Điện khí có tính sẵn sàng cao, công suất lớn, với dải điều chỉnh rộng, thời gian đáp ứng nhanh, giảm thiểu phát thải khí nhà kính, giảm thiểu khí gây ô nhiễm so với các nhà máy điện chạy than và dầu.
Theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII), tổng công suất nguồn điện đến năm 2030 khoảng 150-160 nghìn MW, gấp đôi tổng công suất đặt hiện nay. Trong đó, nhiệt điện khí trong nước và LNG đến năm 2030 sẽ đạt 37.330MW, tương ứng 24,8% tổng công suất nguồn điện 150.489MW, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nguồn điện.
Hiện nay, cả nước có 13 dự án điện LNG đã được Thủ tướng phê duyệt trong danh mục các dự án quan trọng, ưu tiên đầu tư của ngành điện tại Quyết định 500/QĐ-TTg. Theo đó, đến năm 2030 sẽ có 22.400MW điện khí LNG, chiếm 14,9% tổng nguồn điện của cả nước với năng lực sản xuất 83 tỷ kW giờ. Đây sẽ là một trong các nguồn giúp bảo đảm cung cấp đủ, ổn định và an toàn hệ thống điện quốc gia.
Ông Mai Xuân Ba, đại diện PV Gas phát biểu. Theo ông Mai Xuân Ba, đại diện Tổng công ty Khí Việt Nam (PV Gas), thành viên của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), hiện nay, PV Gas có hệ thống cơ sở hạ tầng khí hiện đại, duy nhất và lớn nhất Việt Nam gồm: hệ thống đường ống vận chuyển khí, phân phối, các nhà máy xử lý khí, kho chứa sản phẩm, cùng gần 3.000 cán bộ công nhân viên có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm,...
Để đáp ứng công suất quy hoạch nhiệt điện khí và LNG theo Quy hoạch điện VIII, PVGAS bắt đầu đưa Kho cảng LNG Thị Vải tại khu vực Đông Nam Bộ vào vận hành từ tháng 7/2023, với công suất giai đoạn I đạt 1 triệu tấn/năm và đang triển khai giai đoạn II, nâng công suất lên 3-5 triệu tấn/năm vào năm 2026. Khu vực Nam Trung Bộ, PV Gas cùng Tập đoàn AES (Mỹ) triển khai dự án Kho cảng LNG Sơn Mỹ, phấn đấu đưa vào vận hành, khai thác từ năm 2026, (giai đoạn I công suất đạt 3,6 triệu tấn/năm, giai đoạn II nâng lên 6 triệu tấn/năm). Khu vực Bắc Bộ cũng được lập kế hoạch đầu tư kho cảng LNG, công suất giai đoạn I đạt 3 triệu tấn/năm, giai đoạn II là 6 triệu tấn/năm.
Những thách thức phát triển điện khí
Một trong những thách thức lớn nhất của phát triển điện khí là sự thiếu hụt nguồn khí trong nước và tăng phụ thuộc nguồn LNG nhập khẩu không chỉ để cung cấp cho các dự án điện khí LNG mới, mà còn là cấp thiết để bù đắp cho nguồn khí nội địa cung cấp cho các nhà máy điện khí hiện hữu sẽ bị thiếu hụt trong tương lai, khi giá LNG nhập khẩu biến động theo giá thị trường quốc tế.
Năm 2015, sản lượng khí cấp trong nước cho sản xuất điện đạt cao nhất là 8,8 tỷ m3/năm; trong đó, khu vực Đông Nam Bộ 7,3 tỷ m3/năm, Tây Nam Bộ 1,5 tỷ m3/năm. Hiện nay, nguồn khí nội địa cho sản xuất điện đang suy giảm nhanh chóng qua từng năm, năm 2023, khu vực Đông Nam Bộ còn khoảng 4,3 tỷ m3/năm và Tây Nam Bộ còn khoảng 1,4 tỷ m3/năm. Theo dự báo, đến năm 2030, khu vực Đông Nam Bộ chỉ còn khoảng 1 tỷ m3/năm và Tây Nam Bộ chỉ còn khoảng 0,6 tỷ m3/năm.
Hiện nay, giá thành điện của nhà máy điện khí LNG vẫn cao hơn rất nhiều so giá bán lẻ điện của EVN. Bộ Công thương vẫn chưa ban hành khung giá phát điện cho các nhà máy điện khí LNG. Trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi khó lường, giá nhiên liệu khí hóa lỏng biến động thất thường và chiếm tỷ lệ từ 70-80% giá thành điện năng sản xuất, việc xây dựng cơ chế giá điện phù hợp, không tác động nhiều tới giá bán lẻ điện là thách thức rất lớn với Việt Nam.
Thứ hai, Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong xây dựng, vận hành các dự án kho cảng LNG và chuỗi dự án điện khí sử dụng LNG; việc nhập khẩu LNG phải theo các thông lệ quốc tế. Trong khi đó, khuôn khổ pháp lý hiện hành cho các dự án LNG ở Việt Nam chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Thậm chí, Việt Nam hiện chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan địa điểm, thiết kế, xây dựng và vận hành các cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu khí LNG.
Các chuyên gia, nhà khoa học, quản lý tại diễn đàn. Để đáp ứng khí cho 13 dự án nhiệt điện LNG với tổng công suất 22.400MW cần tổng công suất kho chứa khoảng 15-18 triệu tấn LNG/năm. Hiện nay, Việt Nam chỉ có duy nhất dự án kho chứa LNG tại Thị Vải với công suất 1 triệu tấn LNG/năm và thực tế triển khai dự án Kho chứa LNG tại Thị Vải cho thấy phải cần rất nhiều thời gian, nguồn lực để vượt qua khó khăn về kinh tế, kỹ thuật,...
Từ nay đến năm 2030, chỉ còn 7 năm nữa để các dự án khí hóa lỏng triển khai và đi vào vận hành. Nếu không nhanh chóng tháo gỡ vướng mắc, việc triển khai các dự án khí hóa lỏng sẽ gặp trở ngại lớn, đồng thời ảnh hưởng đến bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Do đó, để phát triển điện khí, theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý (nhất là các quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về kỹ thuật, thương mại, tài chính...) làm cơ sở để đầu tư xây dựng kho cảng LNG mới, hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế tại các vị trí chiến lược, đủ khả năng tiếp nhận tàu chở LNG có kích thước lớn. Bên cạnh đó, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chuỗi dự án khí điện Lô B, Cá Voi Xanh, trong đó đầu tư xây dựng các nhà máy nhiệt điện khí Ô Môn II, III, IV, Miền Trung I, II và Dung Quất I, II, III,…
Đặc biệt, trước mắt cần đẩy nhanh nghiên cứu, đánh giá tính khả thi và triển khai nâng công suất/đầu tư mới các dự án kho cảng LNG để kịp thời đáp ứng nhu cầu nhiên liệu cho phát điện theo Quy hoạch; xây dựng, vận hành và khai thác hạ tầng kỹ thuật quốc gia về điện khí LNG theo mô hình các kho cảng LNG trung tâm (LNG Hub); đẩy nhanh việc tìm kiếm, thăm dò trữ lượng và sản lượng khai thác dầu khí trong nước; phát triển các nguồn năng lượng tái tạo,...
Tóm lại, phát triển điện khí trong thời gian tới cần bám sát nguyên tắc ưu tiên sử dụng hết lượng khí khai thác trong nước cho sản xuất điện để tăng tính tự chủ trong sản xuất điện, chuyển dần sang đốt kèm nhiên liệu hydrogen khi công nghệ được chứng thực. Ngoài ra, xem xét chuyển đổi một số dự án nguồn điện dự kiến sử dụng nhiên liệu than sang sử dụng LNG; phát triển nhiệt điện khí sử dụng LNG nhập khẩu ở quy mô phù hợp; nâng cao tính tự chủ của ngành điện, bảo đảm các mục tiêu cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị COP26 về trung hòa carbon vào năm 2050.